Vị thuốc lạc tiên trong y học cổ truyền t hường dùng là bộ phận trên mặt đất của cây lạc tiên (Passiflora foetida L.).
Gốc lá hình tim, đầu lá nhọn. Hoa to, đều, lưỡng tính, mọc riêng lẻ ở kẽ lá, 5 cánh, màu trắng hoặc hơi tím. Quả mọng, hình trứng, dài độ 3cm, bao bọc bởi tổng bao lá bắc tồn tại. Lạc tiên mọc hoang và được trồng ở nhiều vùng nước ta.
Để làm thuốc, người ta thu hái các bộ phận trên mặt đất, rửa sạch, phơi khô, cắt đoạn 3-5cm. Trước khi dùng sao hơi vàng, dùng dần.
Trường hợp tim hồi hộp, loạn nhịp, mất ngủ, lo âu, đau đầu, choáng váng:
Lạc tiên nấu thành cao lỏng với tỷ lệ 1 phần lạc tiên 1 phần nước, pha thêm chút đường cho dễ uống, ngày 2-3 lần, mỗi lần 50 -100ml, sau mỗi bữa ăn và trước khi đi ngủ. Cũng có thể phối hợp với một số dược liệu an thần khác như lạc tiên, lá vông, lá dâu, lá sen, mỗi loại 20g, tâm sen 4g. Sắc uống ngày một thang.
Trong dân gian, bà con ta thường thu hái quả, rửa sạch, bổ đôi, nạo hết ruột, ép và lọc lấy dịch quả, thêm ít nước đun sôi để nguội và chút mật ong hoặc đường đủ ngọt để uống. Dịch quả lạc tiên thơm, ngon, bổ, mát; thích hợp cho giải nhiệt mùa hè. Hoặc hái phần ngọn và lá non của lạc tiên mỗi lần khoảng 100 – 200g nấu canh ăn giúp ngủ ngon.
Phân biệt các loại lạc tiên:
Ngoài loài lạc tiên nói trên, để tránh nhầm lẫn, cần lưu ý tới một số loài khác cũng mang tên lạc tiên.
Lạc tiên Nam Bộ (Passiflora cochinchinensis Spreng) cũng là cây leo nhưng cành hơi dẹt, có khía rãnh. Lá thuôn hẹp, gốc lá và đầu lá hơi tròn, mép nguyên, mặt trên nhẵn, mặt dưới có ít lông. Cụm hoa màu trắng. Quả nhỏ hình trứng nhẵn. Cây này không được dùng làm thuốc an thần như lạc tiên nói trên.
Lạc tiên tây (P. incarnata L.): là dây leo, dài đến 9 – 10m. Thân có rãnh dọc, vỏ màu xám nhạt, sau chuyển màu đỏ tía, khi non có lông mịn. Lá mọc so le, ba thùy, mép có răng cưa, có tua cuốn ở kẽ lá. Hoa to, màu trắng, thơm, có cuống dài, màu tím hoặc hơi hồng. Quả hình trứng. Khi chín có màu vàng. Quả có vị chua, chứa vitamin. Có tác dụng bổ mát, giải nhiệt.
Lạc tiên là vị thuốc đầu bảng được danh Y đặt tên theo nghĩa lạc vào cõi tiên (dựa trên tích ngủ được là tiên), khi phối hợp với các vị thuốc an thần, bổ can thận khác như Dạ giao đằng, Sơn thù, Tâm sen, Bá tử nhân và Diệp hạ châu có tác dụng hiệp đồng (tăng cường) hiệu quả giúp người dùng đi vào giấc ngủ sâu giấc tự nhiên.
Theo Bùi Phương